Đăng vào Chủ nhật, ngày 13/11/2016
Bệnh viện C Thái Nguyên Điểm sáng trong ứng dụng hiệu quả kỹ thuật của Y học hiện đại điều trị những bệnh lý nguy hiểm
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của y học hiện đại, sự vận dụng sáng tạo những tiến bộ kỹ thuật trong khám và điều trị bệnh, nhờ đó công tác khám chữa bệnh của ngành Y tế Thái Nguyên luôn đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Những kết quả đó đã phần nào khẳng định uy tín, vị thế của ngành y tế tỉnh nhà như tạo dựng được niềm tin sâu rộng trong nhân dân, đồng thời tạo động lực phát triển cho Y tế Thái Nguyên trong những giai đoạn tiếp theo.

Điều sáng trong khám và điều trị bệnh của ngành y tế tỉnh nhà phải kể đến những nỗ lực đáng kể của đội ngũ cán bộ, nhân viên Bệnh viện C Thái Nguyên. Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Ban Giám đốc bệnh viện cùng đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao, mà hơn hết là tinh thần học hỏi, trau dồi kiến thức, sự tiếp thu sáng tạo và vận dụng có hiệu quả những tiến bộ của y học từ các nước phát triển nên công tác khám chữa bệnh của bệnh viện trong những năm gần đây ngày càng có những bước phát triển vượt bậc.


Xét về quy mô và trình độ chuyên môn, Bệnh viện C Thái Nguyên được xếp hạng là bệnh viện Đa khoa hạng I theo Quyết định số 415/QĐ-UBND ngày 12 tháng 02 năm 2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Với nguồn nhân lực dồi dào (tổng số 536 CBVCLĐ) và số lượng giường bệnh lớn (510 giường năm 2015) được tổ chức thành 26 khoa phòng, bệnh viện có khả năng đáp ứng nhu cầu khám và điều trị bệnh cho đông đảo nhân dân trên địa bàn tỉnh và một số vùng lân cận.
Năm 2015 Bệnh viện C tiếp tục nhận được sự quan tâm của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh và sự chỉ đạo trực tiếp của Sở Y tế, sự ủng hộ và giúp đỡ tận tình của các Sở, Ban, Ngành, vì vậy Bệnh viện đã được xếp lên hạng I kể từ ngày 01/02/2015. Nhờ đó, Bệnh viện đã cải tạo, nâng cấp rất nhiều về trang thiết bị y tế và chuyên môn kỹ thuật như: Máy chụp cắt lớp 64 dãy, máy siêu âm màu 4 chiều, máy chụp Xquang CR, Cram phòng mổ, hệ thống nội soi … Cùng với đó, đội ngũ cán bộ viên chức được đào tạo cơ bản về chuyên môn, chính trị, có tay nghề cao, nhiều đồng chí có trình độ sau đại học như: CKI, CKII, Thạc sĩ, Tiến sĩ, không chỉ có trình độ chuyên môn cao mà họ còn làm việc với tinh thần đoàn kết, hăng say và trách nhiệm cao với nghề.


Bên cạnh thực hiện nhiệm vụ công tác chuyên môn, công tác phát triển khoa học kỹ thuật luôn được coi là khâu then chốt. Năm 2015 Bệnh viện tiếp tục đi sâu và hoàn thiện những kỹ thuật đã làm được trong các năm trước với chất lượng ngày càng cao, số lượng ngày càng lớn, an toàn tuyệt đối, đồng thời củng cố, hoàn thiện các kỹ thuật như: Phẫu thuật vỡ lún đốt sống ngực, thắt lưng do chấn thương bằng phương pháp cố định cột sống qua cuống, phẫu thuật thay khớp háng, phẫu thuật nội soi cắt túi mật, phẫu thuật nối vị tràng do ung thư dạ dầy, phẫu thuật mở thông dạ dầy do K thực quản, phẫu thuật tai xương chũm, phẫu thuật gãy lồi cầu xương hàm dưới, kỹ thuật giảm đau sau phẫu thuật bằng morphin do người bệnh tự điều khiển-PCA, kỹ thuật làm cầu cho bệnh nhân chạy thận nhân tạo, xét nghiệm Bêta HCG, Insulin, Feritin, Pan amynaza…


Xác định công tác phát triển khoa học kỹ thuật phải gắn liền với công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học mới đem lại hiệu quả cao nên Bệnh viện C tiếp tục cử cán bộ đi học nâng cao ở các Bệnh viện tuyến trên như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, cử cán bộ đi học Tiến sĩ, Thạc sỹ, BSCKI, BSCKII… Bệnh viện đã cử các kíp đi học nâng cao tại các bệnh viện theo dự án hỗ trợ y tế các tỉnh Đông Bắc Bộ và Đồng Bằng Sông Hồng (NORRED) như: Bệnh viện Tim Hà Nội; Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Bạch Mai; Bệnh viện K; Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương, Bệnh viện Nhi Trung Ương… Tiếp đó, đầu năm 2015 Bệnh viện C Thái Nguyên đã cử 19 cán bộ đi ôn thi nâng cao trình độ chuyên môn. Đồng thời, tiếp tục đề nghị Bộ Y tế; Bệnh viện đa khoa trung ương hỗ trợ theo đề án 1816 gồm các bệnh viện như: Việt Đức, Bạch Mai, Nhi Trung Ương… Cùng với đó, Bệnh viện cũng đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học nhất là những đề tài có tác dụng thiết thực phục vụ công tác khám chữa bệnh tại Bệnh viện.


Cùng với sự tiến bộ và phát triển của y học hiện đại, những bệnh lý nguy hiểm và có tính chất phức tạp đang dần được nghiên cứu và tìm ra phương pháp điều trị hữu hiệu. Trong đó, u não là một trong những bệnh lý nguy hiểm đối với tính mạng người bệnh và có khả năng gây tử vong cao. Phẫu thuật u não là một trong những phẫu thuật khó và phức tạp có tỷ lệ biến chứng, tử vong cao, đặc biệt có thể để lại nhiều di chứng ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Đối với u ác tính tỷ lệ tái phát cao, các bệnh nhân có nhiều khối u, u di căn lên não, các khối u nằm sâu hoặc vị trí nguy hiểm trong não phẫu thuật lại càng khó khăn, phức tạp và tỷ lệ tử vong càng cao. Bởi vậy, việc tìm ra phương pháp điều trị phù hợp và mang lại hiệu quả cao là vấn đề đáng quan tâm của những người hoạt động trong lĩnh vực y học. Những năm gần đây có rất nhiều tiến bộ trong điều trị u não, với sự ra đời của máy gia tốc, máy xạ phẫu bằng dao gamma (X knife, Cyber knife, Gyroknife) như một phát minh mang tính đột phá, mở ra hướng đi mới cho y học trong điều trị căn bệnh quái ác, giúp giải quyết những trường hợp u não khó hoặc không phẫu thuật được, mang lại thời gian và chất lượng sống tốt hơn cho người bệnh. Xạ phẫu bằng dao gamma có độ chính xác cao, thao tác thuận tiện, an toàn và hiệu quả, đặc biệt là các khối u não như các u nguyên phát ở não (u màng não, u thần kinh đệm, u sọ hầu, u tuyến yên, u tuyến tùng, u dây thần kinh sọ não…) và các u di căn não.


Bên cạnh những thành công về ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong điều trị những bệnh lý thường gặp, Bệnh viện C Thái Nguyên còn khẳng định tầm quan trọng và mở ra một trang mới trên bước đường phát triển của mình với việc áp dụng thành công kỹ thuật hiện đại trong điều trị u não với máy xạ phẫu bằng dao gamma. Được phép của UBND tỉnh Thái Nguyên và Bộ Y tế, Bệnh viện C Thái Nguyên đã liên doanh, liên kết với các công ty của Singapore và Trung Quốc lắp đặt dao Gamma thế hệ 5 để điều trị các khối u sọ não và một số bệnh lý thần kinh sọ não. Từ đầu năm 2011, được sự giúp đỡ của Bệnh viên K Trung Ương, Bệnh viện Bạch Mai và chuyên gia của Trung Quốc, Bệnh viện C Thái Nguyên đã tiến hành xạ phẫu cho những bệnh nhân bị các khối u sọ não. Gyroknife là dao gamma quay thế hệ thứ 5 – một thiết bị hiện đại trong các thế hệ dao gamma hiện có trên thế giới. Dao gamma quay này được dùng để xạ phẫu các khối u não, các dị dạng mạch máu và một số bệnh lý khác ở thần kinh sọ não và bệnh lý vùng thân. Xạ gamma đang được áp dụng tại nhiều trung tâm lớn hiện nay, phương pháp này ra đời góp phần giải quyết hiệu quả đối với các u lành tính và ác tính không có khả năng mổ mở được, và u tái phát nhiều lần. Gyroknife (dao Gyro) quay là một hệ thống xạ phẫu kỹ thuật số bằng tia Gamma (γ) Cobalt-60 với hoạt độ ban đầu 7.000 Ci. Thiết bị này kết hợp được tính ưu điểm của dao Gamma và máy gia tốc tuyến tính thế hệ trước. Dao Gyro có khả năng chiếu xạ linh hoạt từ nhiều góc khác nhau theo nguyên lý con quay, do đó có thể điều trị niều loại u trong cơ thể, sử dụng phương pháp hội tụ 3 lần đồng tâm chính xác cao, tỷ lệ hội tụ chùm bức xạ đến 550:1. Bởi vậy, liều lượng chiếu vào mô bệnh là lớn nhất, trong khi đó giảm thiểu được liều có hại vào các mô lành. Hệ thống giường điều trị được cấu tạo bởi một khung cố định với bề mặt có thể tự động chuyển động theo 3 hướng tọa độ không gian: Trục X (rộng) 200mm, trục Y (cao) 150mm, trục Z (dài) 1.200mm. các ống chuẩn trực có kích cỡ khác nhau theo đường kính từ 5mm, 15mm, 25mm và 50mm. Các chùm tia Gamma phát ra từ nhiều hướng được hội tụ vào vị trí khối u (bia) với suất liều 2,5 Gy/phút. Với nguyên tắc hoạt động và những ưu điểm đó, phẫu thuật bằng dao Gamma (Gyroknife) an toàn, hiệu quả đặc biệt đối với các khối u và một số bệnh lý sọ não vì không phải mở hộp sọ, không chảy máu, thời gian xạ phẫu ngắn, ít độc hại cho thầy thuốc và bệnh nhân. Với việc áp dụng kỹ thuật hiện đại này đã cứu sống và đem lại tia hy vọng cho biết bao bệnh nhân và gia đình người bệnh mắc phải căn bệnh u não nguy hiểm.


Tiếp nối những thành công từ việc áp dụng kỹ thuật hiện đại trong điều trị u não nói trên, trong thời gian tới Bệnh viện C Thái Nguyên sẽ ngày càng có những bước tiến xa hơn nữa trong phát hiện, ứng dụng và điều trị các bệnh lý nguy hiểm, góp phần đem lại sự sống và củng cố niềm tin cho những người bệnh đang ngày đêm pahir gồng mình chiến đấu với những căn bệnh quái ác. Để bệnh viện luôn là nơi gieo mầm hy vọng cho bệnh nhân, nơi “lương y như từ mẫu”, xứng đáng với sự tin yêu của nhân dân, đồng thời khẳng định uy tín cũng như vị thế của Bệnh viện nói riêng và ngành y tế tỉnh Thái Nguyên nói chung trên những chặng đường phát triển tiếp theo.

Ban biên tập
(Bệnh viện C)